Viết bài tập làm văn số 7 - Nghị luận văn học (Phần 2) Độ dài: 30 phút - Số lượt học 111 Đề cương khóa học - Chưa học - Đã học - Đã hoàn thành HƯỚNG DẪN HỌC TRỰC TUYẾN HƯỚNG DẪN HỌC TRỰC TUYẾN 2 00% HƯỚNG DẪN HỌC TRỰC TUYẾN 4 phút 1080 00% HƯỚNG DẪN LÀM, TẢI VÀ IN BTTL 3 phút 650 BÀI GIẢNG MIỄN PHÍ 00% Luyện tập tóm tắt tác phẩm tự sự - Tham khảo Viết bài tập làm văn số 7 - Nghị luận văn học Hướng dẫn I - THAM KHẢO CÁC ĐỀ BÀI SAU Đề 1. Suy nghĩ của em về nhân vật - Xem bài viết Viết bài tập làm văn số 7 - Nghị luận văn học chi tiết. Thứ ba:Tập chuyển đoạn văn nghị luận ngắn đã viết thành đoạn văn nghị luận dài. Thứ tư: từ bài nghị luận tìm xem có câu nào, luận điểm nào có thể triển khai được không. Soạn bài: Tuần 19 - Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học; Soạn bài: Viết bài làm 7. Nêu quan niệm về kẻ sĩ được thể hiện trong lời bình cuối truyện 6. Thế giới thần linh, ma quỷ trong truyện là sản phẩm hư cấu nghệ thuật của Nguyễn Dữ 5. Sáng tạo chi tiết người đi đường gặp Tử Văn ngồi trên "xe quan Phán sự" và việc người đời 4. Nhân vật Từ Văn được khắc hoạ chủ yếu qua những chi tiết nào? Bài viết Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về "Niềm tin": Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về "Niềm tin" Bài làm Bạn có thể bị lừa dối nếu bạn tin tưởng quá Nghị luận về thể dục thể thao với đời sống con người 19/09/2017 5,720 ; Tả về qXTUu. Soạn bài lớp 8 tập 2Soạn bài Viết bài tập làm văn số 7 - Văn nghị luậnSoạn Văn 8 Viết bài tập làm văn số 7 - Văn nghị luận là tài liệu tham khảo hay được sưu tầm, giúp bạn thuận tiện hơn trong quá trình soạn bài để chuẩn bị cho bài học mới trên lớp. Mời các bạn tham khảo bài soạn văn 8 này để học tốt môn Ngữ văn lớp 8 Văn 8 Chữa lỗi diễn đạtSoạn Văn 8 Chương trình địa phương phần vănSoạn Văn 8 Luyện tập đưa các yếu tố tự sự và miêu tả vào bài văn nghị luậnSoạn bài Viết bài tập làm văn số 7 - Văn nghị luận siêu ngắnSoạn bài lớp 8 bài Viết bài tập làm văn số 7 - Văn nghị luậnĐề 1 Tuổi trẻ và tương lai của đất nước gợi ý Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Bác Hồ tha thiết căn dặn "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, ... ở công học tập của các cháu." Đề bài của Bác giúp em hiểu đề bài trên như thế nào?a Mở bài Dẫn dắt vào đề bằng lời dạy của Bác Hồ. Nêu vai trò của tuổi trẻ với tương lai đất Thân bài- Tại sao nói "Tuổi trẻ là tương lai đất nước"?+ Tuổi trẻ bao giờ cũng dồi dào sức khoẻ, có đủ nhiệt tình để cống hiến cho quê hương, đất nước.+ Tuổi trẻ không bao giờ thiếu ước mơ và sự sáng tạo.+ Có nhiệt huyết, sự táo bạo và sẵn sàng dấn thân để đến những nơi khó khăn và làm những việc Tuổi trẻ nước ta trong quá khứ đã cống hiến cho đất nước như thế nào? kể về một số tấm gương mà em biết, như Trạng Hiền, Lê Văn Tám, Nguyễn Văn Trỗi, Lê Bá Khánh Trình,....- Tuổi trẻ hôm nay cần làm gì để cống hiến cho đất nước?+ Ra sức học tập.+ Tham gia tích cực các hoạt động xã hội.+ Thi đua lập thành tích trong mọi lĩnh vực của đời sống.+ Chủ động tiếp nhận và gánh vác dần những công việc của thế hệ trước....- Tuổi trẻ cũng cần khắc phục nhược điểm không có lợi cho bản thân và tương lai của đất nước sự bồng bột, thói ỷ lại, thó ăn chơi sa đoạ,....c Kết bàiTuổi trẻ phải ước mơ, phải khát khao cống hiến. Có như vậy, cuộc sống mới dồi dào ý tham khảo bài văn mẫu Bài văn mẫu lớp 8 số 7 đề 1 Tuổi trẻ là tương lai của đất nướcĐề 2 Văn học và tình thương gợi ý Chứng minh rằng văn học của dân tộc ta luôn ca ngợi những ai biết "thương người như thể thương thân" và nghiêm khắc phê phán những kẻ thờ ơ, dửng dưng trước người gặp hoạn nạn.a Mở bài Mối quan hệ giữa văn học và tình thương trong lịch sử văn Thân bài- Tại sao văn học luôn gắn bó với tình thương?+ Vì văn học là tâm hồn dân tộc.+ Một trong những vẻ đẹp nhất của tâm hồn dân tộc ấy là tình thương yêu nhân Văn học gắn bó với tình thương như thế nào?+ Văn học nói lên nỗi đau khổ của mọi kiếp người.+ Văn học nói lên sự cảm thông đối với nỗi đau của họ và gợi tình thương yêu trong mỗi tâm hồn người đọc.+ Văn học bồi dưỡng, làm đẹp tâm hồn con Kết bài Tình yêu thương đã trở thành một phẩm chất và là thước đo cao quý của văn học. Nó cứu vớt, dìu dắt, nâng niu con người trong hiện tại và trên đường đến tương thêm các bài văn mẫu Bài văn mẫu lớp 8 số 7 đề 2 Văn học và tình thươngĐề 3 Hãy nói không với các tệ nạn gợi ý Hãy viết 1 bài nghị luận để nêu rõ tác hại của 1 trong các tệ nạn xã hội mà chúng ta cần phải kiên quyết và nhanh chóng bài trừ như cờ bạc, tiêm chích ma tuý, hoặc tiếp xúc với những văn hoá phẩm không lành mạnh.a Mở bài- Những tệ nạn xã hội nào hiện đang rình rập và làm hại tới giới trẻ và tương lai của đất nước?- Thái độ của giới trẻ ra sao?b Thân bài- Tuổi trẻ hiện nay thường mắc vào các loại tệ nạn như thế nào?- Tác hại của các tệ nạn đối với mỗi cá nhân và xã hội?+ Thiệt hại về vật chất.+ Làm tan vỡ hạnh phúc gia đình.+ Bản thân mỗi cá nhân mất sức sản xuất.+ Trở thành nỗi lo của xã hội.+ Làm gia tăng các loại tệ nạn khác....- Nhận thức của giới trẻ với các tệ nạn ra sao?+ Còn mơ hồ.+ Coi thường, thờ ơ, sống buông thả,...- Cần phải nhận thức vấn đề này ra sao?+ Đây là một trong những con đường nhanh nhất làm phá tan mọi điều tốt đẹp nhất của mỗi con người.+ Cần nhận thức đúng đắn, đồng thời góp ý, chỉ bảo mọi người cùng nhau "Nói không với các tệ nạn xã hội".c Kết bàiKhẳng định sự nguy hiểm của các tệ nạn. Đồng thời khẳng định quyết tâm tiêu trừ thêm các bài văn mẫu Bài viết số 7 lớp 8 đề 3 Hãy nói "Không" với các tệ nạn xã hộiMời các bạn tham khảo tài liệu liên quanDưới đây là bài soạn Viết bài tập làm văn số 7 - Văn nghị luận bản rút gọn nếu bạn muốn xem hãy kích vào đây Soạn văn 8 Viết bài tập làm văn số 7 - Văn nghị luậnNgoài đề cương ôn tập chúng tôi còn sưu tập rất nhiều tài liệu học kì 2 lớp 8 từ tất cả các trường THCS trên toàn quốc của tất cả các môn Toán, Văn, Anh, Lý, Hóa, Sinh. Hy vọng rằng tài liệu lớp 8 này sẽ giúp ích trong việc ôn tập và rèn luyện thêm kiến thức ở nhà. Chúc các bạn học tốt và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới Bài soạn Viết bài làm văn số 7 - Văn nghị luận sẽ hướng dẫn các em vận dụng kiến thức chung về văn nghị luận và các kĩ năng lập luận, lập dàn ý đã được học ở THCS và mới được ôn tập ở lớp 10 để viết được một bài nghị luận có nội dung sát hợp với thực tế sinh hoạt và học tập ở trường Nhắc lại một số kiến thức cơ bản về văn nghị luận- Khái niệm Văn nghị luận là loại văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng nào đó đối với các sự việc, hiện tượng trong đời sống hay trong văn học bằng các luận điểm, luận cứ và lập Đặc điểm của văn nghị luận+ Luận điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm trong bài văn nghị luận. Một bài văn thường có các luận điểm luận điểm chính, luận điểm xuất phát, luận điểm khai triển, luận điểm kết luận.+ Luận cứ là những lí lẽ và dẫn chứng làm cơ sở cho luận điểm. Luận điểm là kết luận của những lí lẽ và dẫn chứng đó. Luận cứ trả lời các câu hỏi Vì sao phải nêu luận điểm? Nêu ra để làm gì? Luận điểm ấy có đáng tin cậy không?- Dàn ý chung của một bài văn nghị luận+ Mở bài đặt vấn đề Giới thiệu vấn đề, tầm quan trọng của vấn đề, nêu được luận điểm cơ bản cần giải quyết.+ Thân bài giải quyết vấn đề Triển khai các luận điểm, dùng lí lẽ dẫn chứng lập luận để thuyết phục người nghe theo quan điểm đã trình bày.+ Kết bài kết thúc vấn đề Khẳng định tầm quan trọng, ý nghĩa của vấn đề đã Các phương pháp lập luận+ Chứng minh mục đích làm sáng tỏ vấn đề, dùng lí lẽ và dẫn chứng để khẳng định tính đúng đắn của vấn đề.+ Giải thích chỉ ra nguyên nhân, lí do, quy luật của sự việc hiện tượng được nêu trong luận điểm. Trong văn nghị luận, giải thích là làm sáng tỏ một từ, một câu, một nhận định.+ Phân tích là cách lập luận trình bày từng bộ phận, phương diện của một vấn đề nhằm chỉ ra nội dung của sự vật, hiện tượng. Để phân tích nội dung của một sự vật, hiện tượng, người ta có thể vận dụng các biện pháp nêu giả thiết, so sánh đối chiếu,… và cả phép lập luận giải thích, chứng minh.+ Tổng hợp là phép lập luận rút ra cái chung từ những điều đã phân tích. Lập luận tổng hợp thường đặt ở cuối đoạn hay cuối bài, phần kết luận của một phần hoặc toàn bộ văn Hai thể loại văn nghị luận chính nghị luận xã hội về một sự việc, hiện tượng trong đời sống, về vấn đề tư tưởng, đạo lí, nghị luận văn học về một bài thơ, đoạn thơ, về tác phẩm truyện.- Sự đan xen của các yếu tố thuộc phương thức biểu đạt khác yếu tố biểu cảm, yếu tố tự sự, miêu Gợi ý cách làm Bài viết văn số 7 - Văn nghị luậnCùng Đọc Tài Liệu đi vào phân tích và lập dàn ý cho một số đề bài mẫu trong SGK trang 136 nhé !Đề 1 Dân tộc ta có truyền thông “Tôn sư trọng đạo”. Theo anh chị, truyền thống ấy được nối tiếp như thế nào trong thực tế cuộc sống hiện nay?Gợi ý làm bài* Xác định yêu cầu của đề bài- Về thể loại nghị luận xã Nội dung vấn đề “Tôn sư trọng đạo”, một vấn đề có tính truyền thống của dân Phạm vi tư liệu dùng cho bài viết rất rộng từ xưa đến nay- Thao tác lập luận Người viết cần sử dụng một cách tổng hợp các thao tác, lập luận phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, so sánh.* Bài viết cần đảm bảo những ý cơ bản saua. Giải thích vấn đề truyền thống “tôn sư trọng đạo”- Giải thích các khái niệm “sư”? “tôn sư”?, “đạo”? “trọng đạo”?- Giải thích ý nghĩa của vấn đề “tôn sư trọng đạo” là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.+ Kính trọng và đề cao vai trò của người thầy.+ Coi trọng việc học hành.+ Coi trọng đạo lý làm người, đề cao nhân nghĩa...b. Truyền thống “tôn sư trọng đạo'” được nối tiếp như thế nào trong thực tế cuộc sống hiện nay- Hoàn cảnh, điều kiện sống có những gì thay đổi?- Những gì được tiếp tục phát huy? Những gì có sự bổ sung, phát triển? Những hiện tượng nào cần lên án?c. Cần phải làm gì để phát huy truyền thống “Tôn sư trọng đạo” trong thời đại mới?Bài làm tham khảo Nghị luận về truyền thống Tôn sư trọng đạo của dân tộc taĐề 2 Có ý kiến cho rằng Những thói xấu ban đầu là người khách qua đường, sau trở nên người bạn thân ở chung nhà và kết cục biến thành ông chủ nhà khó chị thấy ý kiến này như thế nào?Gợi ý làm bài* Xác định yêu cầu của đề bài- Về thể loại nghị luận xã Nội dung quá trình hình thành, phát triển của những thói xấu ở con Phạm vi tư liệu những kiến thức đời sống, xã hội- Thao tác lập luận Người viết cần sử dụng một cách tổng hợp các thao tác lập luận phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, so sánh.* Bài viết cần đảm bảo những ý cơ bản saua. Giải thích- Thế nào là những thói xấu của con người?- Tại sao nói Những thói xấu ban đầu là người khách qua đường, sau trở nên người bạn thân ở chung nhà và kết cục biến thành ông chủ nhà khó tínhb. Phân tích, chứng minh và bình luận ý kiến- Trong mỗi con người bao giờ cũng có những đức tính tốt và những tật Nếu con người không biết tự rèn luyện, hướng tới những gì tốt đẹp, bị những thói xấu làm chủ thì “Những thói xấu ban đầu là người khách qua đường, sau trở nên người bạn thân ở chung nhà và kết cục biến thành ông chủ nhà khó tính” khía cạnh đúng của ý kiến.- Nếu con người biết tự rèn luyện, biết hướng tới những gì tốt đẹp, nhận ra những thói hư tật xấu để từ bỏ thì không những thói xấu không có cơ hội phát triển mà dần dần con người đó sẽ trở nên hoàn thiện khía cạnh chưa đúng của ý kiến.c. Hướng rèn luyện của bản thân nói riêng và của mọi người nói 3 Hưởng ứng đợt thi đua xây dựng môi trường xanh, sạch đẹp do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phát động, chi đoàn 10A tổ chức hội thảo với chủ đề Hãy vì một mái trường xanh, sạch, chị hãy viết bài tham gia hội thảo ý làm bài* Xác định yêu cầu của đề bài- Về thể loại nghị luận văn học- Nội dung vấn đề nghị luận là hãy vì một mái trường xanh, sạch, đẹp, một vấn đề đang được đặt ra một cách bức thiết hiện Phạm vi tư liệu Những kiến thức về môi trường- Thao tác lập luận Người viết cần sử dụng một cách tổng hợp các thao tác lập luận phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, so sánh.* Bài viết cần làm nổi bật được những ý cơ bản saua. Ý nghĩa của đợt thi đua xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp là gì?b. Vấn đề môi trường hiện nay ra sao? Mái trường của chúng ta đang trong tình trạng như thế nào?c. Muốn có “một mái trường xanh, sạch, đẹp”, cần thực hiện những biện pháp gì?Đề 4. Học bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão, có người cho rằng sự hổ thẹn của tác giả là quá đáng, kiêu kì. Ngược lại, có người ngợi ca và cho rằng đó là biểu hiện một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu cho biết ý kiến của anh chị.Gợi ý làm bài* Xác định yêu cầu của đề bài- Về thể loại nghị luận văn Nội dung bàn luận về hai vấn đề trái ngược nhau khi đọc bài thơ Thuật hoài với sự hổ thẹn của tác giả thể hiện ở hai câu cuối- Phạm vi tư liệu bài thơ Thuật hoài là những hiểu biết về xã hội, đặc biệt là thời đại của nhà thơ Phạm Ngũ Thao tác lập luận Người viết cần sử dụng một cách tổng hợp các thao tác lập luận phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, so sánh. * Dàn ý tham khảoa. Mở bài- Giới thiệu bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão và sự hổ thẹn của tác giả thể hiện tập trung trong hai câu thơ cuối Giới thiệu hai ý kiến trái ngược nhau về sự hổ thẹn của tác giả và định hướng ý kiến của bản Thân bài- Giải thích ý kiến thứ nhất- Giải thích ý kiến thứ Ý kiến của bản thân Dùng lí lẽ và dẫn chứng để phê phán sự hồ đồ, thiếu hiểu biết của ý kiến thứ nhất, đồng tình với ý kiến thứ hai hoặc có những ý kiến khác nhưng phải lập luận một cách thuyết phụcc. Kết bài- Tổng hợp các luận điểm đã triển Bài học về việc tiếp cận, đánh giá nội dung tư tưởng của một tác phẩm văn khảo văn mẫu Phân tích bài thơ Thuật hoài Phạm Ngũ Lão-/-TỔNG KẾT-Văn nghị luận là vẫn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó, bàn và đánh giá cho rõ về một vấn đề nào đó, dùng lí lẽ phân tích, giải quyết vấn đềĐể làm tốt bài văn nghị luận, cần phân biệt sự khác nhau giữa kiểu bài nghị luận với kiểu bài tự sự và thuyết minh. VIẾT BÀI TẬP LÀM VĂN SỐ 7 – VĂN NGHỊ LUẬN làm tại lớp I. ĐỀ BÀI THAM KHẢO Đề 1 Tuổi trẻ là tương lai của đất nước. Đề 2 Văn học và tình thương. Đề 3 Hãy nó không với các tệ nạn. II. GỢI Ý DÀN BÀI Đề 1 a Mở bài. Dẫn dắt vào đề bằng lời dạy của Bác Hồ. Nêu vai trò của tuổi trẻ với tương lai đất nước. b Thân bài. - Tại sao nói “Tuổi trẻ là tương lai đất nước”? + Tuổi trẻ bao giờ cũng dồi dào sức khoẻ, có đủ nhiệt tình để cống hiến cho quê hương, đất nước. + Tuổi trẻ không bao giờ thiếu ước mơ và sự sáng tạo. + Có nhiệt huyết, sự táo bạo và sẵn sàng dấn thân để đến những nơi khó khăn và làm những việc khó. - Tuổi trẻ nước ta trong quá khứ đã cống hiến cho đất nước như thế nào? kể về một số tấm gương mà em biết, như Trạng Hiền, Lê Văn Tám, Nguyễn Văn Trỗi, Lê Bá Khánh Trình,…. - Tuổi trẻ hôm nay cần làm gì để cống hiến cho đất nước? + Ra sức học tập. + Tham gia tích cực các hoạt động xã hội. + Thi đua lập thành tích trong mọi lĩnh vực của đời sống. + Chủ động tiếp nhận và gánh vác dần những công việc của thế hệ trước. … - Tuổi trẻ cũng cần khắc phục nhược điểm không có lợi cho bản thân và tương lai của đất nước sự bồng bột, thói ỷ lại, thó ăn chơi sa đoạ,…. c Kết bài. Tuổi trẻ phải ước mơ, phải khát khao cống hiến. Có như vậy, cuộc sống mới dồi dào ý nghĩa. Đề 2 a Mở bài. Mối quan hệ giữa văn học và tình thương trong lịch sử văn học. b Thân bài. - Tại sao văn học luôn gắn bó với tình thương? + Vì văn học là tâm hồn dân tộc. + Một trong những vẻ đẹp nhất của tâm hồn dân tộc ấy là tình thương yêu nhân loại. - Văn học gắn bó với tình thương như thế nào? + Văn học nói lên nỗi đau khổ của mọi kiếp người. + Văn học nói lên sự cảm thông đối với nỗi đau của họ và gợi tình thương yêu trong mỗi tâm hồn người đọc. + Văn học bồi dưỡng, làm đẹp tâm hồn con người. c Kết bài. Tình yêu thương đã trở thành một phẩm chất và là thước đo cao quý của văn học. Nó cứu vớt, dìu dắt, nâng niu con người trong hiện tại và trên đường đến tương lai. Đề 3 a Mở bài. - Những tệ nạ xã hội nào hiện đang rình rập và làm hại tới giới trẻ và tương lai của đất nước? - Thái độ của giới trẻ ra sao? b Thân bài. - Tuổi trẻ hiện nay thường mắc vào các loại tệ nạn như thế nào? - Tác hại của các tệ nạn đối với mỗi cá nhân và xã hội? + Thiệt hại về vật chất. + Làm tan vỡ hạnh phúc gia đình. + Bản thân mỗi cá nhân mất sức sản xuất. + Trở thành nỗi lo của xã hội. + Làm gia tăng các loại tệ nạn khác. … - Nhận thức của giới trẻ với các tệ nạn ra sao? + Còn mơ hồ. + Coi thường, thờ ơ, sống buông thả,… - Cần phải nhận thức vấn đề này ra sao? + Đây là một trong những con đường nhanh nhất làm phá tan mọi điều tốt đẹp nhất của mỗi con người. + Cần nhận thức đúng đắn, đồng thời góp ý, chỉ bảo mọi người cùng nhau “Nói không với các tệ nạn xã hội”. c Kết bài. Khẳng định sự nguy hiểm của các tệ nạn. Đồng thời khẳng định quyết tâm tiêu trừ nó. Tham khảo một số bài viết 1. Luận về nguyên lý văn chương Phàm việc gì cũng có nguyên lý. Nguyên lý tức là cái lẽ căn nguyên của việc ấy. Văn chương cũng vậy. Đặt nên câu thơ câu hát, viết ra bài luận, bài văn, thì gọi là văn chương. Song thử xem căn nguyên của văn chương ấy, bởi lẽ gì mà có, vì ở đâu mà sinh ra thì gọi là nguyên lý văn chương. Cha mẹ dạy con, giảng giải đều hơn lẽ thiệt, rạch ròi kẽ tóc chân tơ. Hai người tự tình biệt ly với nhau, ấm lạnh ngọt bùi, kể hết nỗi này kể sang nỗi khác. Người đàn bà lỡ bước, thở dài than vắn, phàn nàn những số phận hẩm hưu. Đứa mục đồng đi chăn trâu, nhân khi thích chí nghêu ngao vài tiếng giữa đồng, đó toàn là cái mầm của văn chương cả. Nói cho cùng thì một tiếng cười một tiếng khóc của đứa trẻ thơ, cũng là cái gốc văn chương. Người ta có tính tình, có tư tưởng, có ngôn ngữ văn tự, thì tự nhiên phải có văn chương. Tính tình người ta cảm xúc với ngoại vật, sinh ra khi mừng, khi giận, khi vui, khi buồn, khi xót xa, khi ham muốn. Các mối tình ấy chứa ở trong bụng, tất phải phát tiết ra nhời nói đó tức là nguyên lý văn chương. Tư tưởng cái suy nghĩ tự trong óc biết phân biệt lẽ phải lẽ trái, biết phán đoán điều dở điều hay, biết suy xét đến những lý cao xa, mắt không trông thấy tai không nghe tiếng. Những điều nghĩ ra được lại muốn tỏ cho người khác biết, đó cũng là nguyên lý văn chương. Có tính tình, có tư tưởng, mà nếu không có ngôn ngữ văn tự thì cũng không thành văn chương được. Xem như giống súc vật có cảm giác, có tri thức, mà không có văn chương là bởi vì không có ngôn ngữ văn tự. Vậy ta phải nhờ có ngôn ngữ văn tự mới đạt được tính tình tư tưởng của ta, thì ngôn ngữ văn tự cũng là cái nguyên lý của văn chương. Nói rút lại thì sở dĩ có văn chương, một là bởi ở tính tình, hai là bởi ở tư tưởng, ba là bởi ở ngôn ngữ văn tự, đó là ba cái căn nguyên trước nhất. Có ba cái căn nguyên ấy, rồi những sự quan cảm ở bề ngoài đưa đến mới thành ra văn chương vậy. Quan cảm bề ngoài, thì lại do ở cảnh tượng của tạo hoá, do ở công việc của cuộc đời và ở cảnh ngộ của một mình. Cảnh tượng của tạo hoá hiển hiện ra trước mắt ta, nghìn hình muôn trạng, làm cho ta phải nhìn phải ngắm, phải nghĩ ngợi ngẩn ngơ. Ta cứ theo cái cảnh tượng ấy mà tả ra thì gọi là văn chương tả cảnh. Công việc của cuộc đời, xảy qua đến mắt ta, chạm đến tai ta, việc gần việc xa, việc nhớn việc nhỏ, có việc ta ghét, có việc ta ưa, làm cho ta phải khen phải chê, phải cười phải khóc. Ta cứ theo công việc đó mà ghi chép lại thì gọi là văn chương tự sự hay là nghị luận. Cảnh ngộ của một mình, khi gặp được cảnh sung sướng, khi gặp phải cảnh chua cay. Ta nhân cái cảnh ngộ đó, ta muốn giãi tỏ cái tình của ta thì gọi văn chương tự tình hay là thuật hoài. Văn chương tuy nhiều, nhưng đại ý thì bất ngoại ba điều ấy. Cứ như vậy thì văn chương cũng là một cái lẽ tự nhiên, phải có của trời phú bẩm cho người ta. Song người ta tuy có sẵn cái phú bẩm ấy, nhưng phi có tài cũng không tả được, mà có tài phi có học thì văn chương cũng không sao hay được. Văn chương khác nhau với nhời nói thường. Nhời nói thường thì gặp đâu nói đấy, miễn là nói cho xuôi nhời, cho người ta hiểu được ý mình thôi. Chớ văn chương thì phải nói cho có ý nhị, có văn hoa, phải xếp đặt cho ra nhời óng chuốt, ý tứ đầu đuôi phải quán xuyến với nhau, mới thành được văn chương. Người làm văn chương, cũng như một tay hoạ công. Hoạ công có khéo tay thì mới vẽ đúng được hình tượng, văn chương có tài tình mới tả đúng được tinh thần. Người có văn chương, lại như cây có hoa. Cây có bồi dưỡng được nhiều khí lực thì nở ra hoa mới được phổng pháp. Người có hàm súc được nhiều kiến thức tư tưởng thì tả ra văn mới được dồi dào. Bởi các lẽ ấy mà tài văn chương là tài hiếm có, mà khoa văn chương là khoa tối cao vậy. Phan Kế Bính 2. Suy nghĩ về việc học Học để làm gì? Câu hỏi ấy nghe ra thật là tầm thường cũ rích, tưởng như không ai để ý đến; nhưng cứ như những câu trả lời của các nhà học giả xưa nay thì có một câu vắn tắt mà có thể bao quát được toàn thể và công dụng sự học là Học để làm người Theo câu nói ấy, có kẻ lại cãi rằng Vậy thì không học không làm người được sao? Kìa như ông Hán Cao Tổ không học mà làm một ông vua anh hùng; ông Hoắc Quang không học mà làm được công nghiệp lớn. Bên Âu Tây, nhiều nhà đại chính trị đại sáng tạo, hoặc trọn đời ở trong các mỏ, các công xưởng mà làm được công việc to đó thì sao? Còn ở trên đời biết bao nhiêu người vào trường nọ, đậu bằng kia, đào mãi trong trăm ngàn bộ sách, miệng nói ra rành là chuyện văn hào đông tây, mà xét đến phẩm cách tính chất, có điều mất cả tư cách làm người nữa. Thế thì câu nói "học để làm người" không phải là không đúng sao? Phải, chỉ nói trông không là "học", thì có hơi không rõ ràng mà lẫn lộn như trên, nên trước phải hiểu cái "học làm người" này không phải như người mình thường gọi là "đi học". Theo lối thông thường người mình thì có ôm sách tới trường, có thầy dạy, có thi có đỗ, mới gọi là học. Nhưng cái học làm người này thì khác hẳn thế. Sao vậy? Cái học làm người này, nói về học khoá cần thiết thì người thông thường ai cũng có thể theo sức lực cùng bản năng của mình mà làm hết phận sự; mà nói đến chỗ cao diệu thì dầu thánh hiền hào kiệt cũng không ai dám tự phụ, rằng đã làm được hoàn toàn cực điểm. Bởi vì, đã là "người" thì ai cũng là người, mà nói đến sự làm người thì rất là mênh mông mà không có hạn lượng. Trăm năm ngắn ngủi, trẻ, lớn, già, chết không cái gì mới lạ. Song kẻ thì thánh hiền hào kiệt, kẻ thì ngu tiện dung phàm; người thì có công với nhân loại, muôn đời ai cũng hinh hương, người lại hại giống hại nòi, trăm miệng cũng đều thoá mạ. Không những thế mà thôi, làm một người về thời đại cổ, và làm một người ở thời đại nay khác nhau; làm người ở nước giàu mạnh với làm người ở nước hèn yếu khác nhau, suy ra đối với nước nhà mình và đối với thế giới nhân loại chung, nên làm người thế nào. Cảnh địa của người trăm chiều không đồng nhau thì cái cách làm người cho xứng đáng thích hợp cũng không phải cùng một cách. Những chuyện mấy bậc vĩ nhân đông tây xưa nay, biết bao nhiêu điều đủ làm gương cho người sau học theo mà người nào có chân tướng người nấy, mỗi người dạy cho người sau một việc; bắt chước được một việc thì dầu ai đọc thuộc trăm nghìn quyển sách cũng chẳng hơn chi. Cái trường học để "làm người" đó tức là cái cõi đời ta ở vậy. Bao nhiêu sự khốn khó ở đời, bao nhiêu sự kinh nghiệm người trước để lại đều là những bài dạy cho ta. "Làm người" ở đời đã khó như trên đã nói thì "học làm người" chắc không phải chuyện dễ. Trong cái trường học mông mênh kia, trắng vàng chen lộn, sự lành sự ác, điều dở điều hay không thiếu thứ gì; nên ai đã đem thân tòng học ở cái trường ấy thì cần phải có cặp mắt biết quan sát và cái não biết phán đoán để lựa những chuyện đáng làm theo, cùng những chuyện đáng chữa cãi. Cái mục đích chân chính của sự học là thế đó. Học như thế mới mong bổ ích cho đời, làm được một phần việc trong xã hội. Trái lại, nếu mới cặp sách đến trường mà trong não đã mơ tưởng đến chức kia hàm nọ, thấy người ta xuống ngựa lên xe, mà cũng ao ước cho được cửa cao nhà rộng, thì cái bả hư vinh, cái mồi phú quý ấy chắc không sao nhắc ta lên cái địa vị làm một người chân chính ở đời được. Vậy ai muốn khỏi cái tiếng hư sinh thì cần phải "học để làm người"; mà học để làm người không phải nhất định có cắp sách đến trường và thi đỗ bằng này bằng nọ, nhưng chính là noi gương kim cổ mà học theo, làm cho hết nghĩa vụ một người đối với nhân quần xã hội vậy Báo Tiếng dân, số 282, ngày 17-5-1930.

viết bài tập làm văn số 7 văn nghị luận